Kinh kịch: Nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc
Kinh kịch Trung Quốc
Kinh kịch là một loại nghệ thuật truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc, có lịch sử lâu dài và ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa truyền thống của đất nước, kết hợp nhiều yếu tố như ca hát, nói, biểu hiện, đấu võ, và vũ đạo để thuật lại câu chuyện và khắc hoạ nhân vật.

1. Lịch sử phát triển của Kinh kịch Trung Quốc
Lịch sử phát triển của Kinh kịch Trung Quốc thể hiện sự đa dạng và thay đổi qua các giai đoạn lịch sử, gồm có những giai đoạn quan trọng như sau:
Nguồn gốc: Kinh kịch bắt nguồn từ nền văn hóa và nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, nhưng phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đặc biệt dưới triều đại Thanh.
Thời nhà Đường: Nghệ thuật diễn tuồng sân khấu được gọi là Hí kịch, về sau phát triển thành Tham quân hí, trong đó có hai vai diễn là Tham quân (vai tinh khôn) và Thương cốt (vai khờ khạo). Hai nhân vật này trong vở diễn thường biểu diễn các đoạn đối đáp khôi hài.
Thời nhà Tống: Tham quân hí biến thành Tạp kịch. Vở diễn cũng chỉ có hai người: Thương cốt (vai khờ khạo) được đổi thành tên Phó mạt, còn Tham quân (vai tinh khôn) được đổi tên là Phó tịnh. Đến thời Nam Tống, vùng đất Ôn Châu là nơi nổi danh về hí kịch, ca múa, nên sản sinh ra thể loại được gọi là Nam hí (hí kịch Nam Tống).
Thời nhà Nguyên: Tạp kịch thời nhà Nguyên nhấn mạnh tính hài hước, qua đó nhằm phê phán các tệ nạn xã hội đương thời. Trong giai đoạn này, tạp kịch đạt đỉnh điểm phát triển với thể loại Truyền kỳ, tập trung vào các chủ đề tình cảm lãng mạn và sử dụng âm nhạc dân gian địa phương.
Thời nhà Thanh: Côn khúc trong Truyền kỳ được gọi là Nhã bộ, rất được giới trí thức hâm mộ. Vào giai đoạn Côn Khúc suy tàn, các loại Hí kịch địa phương mới có dịp nở rộ và được gọi theo tên địa phương như Xuyên kịch của vùng Tứ Xuyên, Tương kịch của vùng Tương Dương,.. về sau được gọi là chung là Kinh kịch. Hầu hết các tài liệu đều chép rằng Kinh kịch bắt đầu từ thời nhà Thanh (1636–1912) và phát triển hoàn thiện vào khoảng giữa thế kỉ 19.
2. Nội dung kịch bản và hình thức biểu diễn trong Kinh kịch Trung Quốc
Nội dung kịch bản Kinh kịch
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Kinh kịch thể hiện những giá trị đạo lý truyền thống như Tam cương (quân, sư, phụ) và Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), gieo gió gặt bão, ở hiền gặp lành,.. phản ánh xã hội và nét đặc trưng văn hóa của Trung Quốc.
Thể loại: Văn Hí (tuồng dân sự), Vũ Hí (tuồng chiến tranh), Đại Hí (tuồng anh hùng), Tiếu Hí (tuồng hài hước)
Hình thức biểu diễn
Kinh kịch một môn nghệ thuật mang tính tổng hợp cao, kết hợp nhiều yếu tố nghệ thuật như: ca, nói, biểu diễn, đấu võ, và vũ đạo để thuật lại câu chuyện và khắc họa nhân vật. Hình thức nghệ thuật biểu diễn Kinh Kịch chủ yếu là: Xướng (hát); Niệm (nói); Tố (điệu bộ) và Đả (võ thuật). Trong đó:
“Xướng” của Kinh kịch chủ yếu là Tây Bì và Nhị Huỳnh. Điệu Tây Bì hát cùng với hồ cầm 63 dây giai điệu hoạt bát, rộn ràng, rắn rỏi mạnh mẽ, hát lên nghe nhanh rõ, rành mạch, thích hợp biểu diễn các trạng thái tâm lý tình cảm mạnh như vui sướng, kiên nghị hoặc phẫn nộ… Điệu Nhị Huỳnh hát với hồ cầm 52 dây, giai điệu nhẹ nhàng, trầm lắng, sâu sắc trữ tình, hát lên nghe lưu loát thư thái, thích hợp thể hiện trạng thái tình cảm trầm tư, bi thương, cảm khái … Cả hai làn điệu Tây Bì và Nhị Huỳnh lại đều có các tiết tấu khác nhau rất đa dạng. Do kinh kịch dùng trống và phách (bản gỗ) để chia ra các tiết đoạn, nên các tiết đoạn trong Kinh kịch được gọi là “bản” hoặc “bản nhãn”.
“Niệm” (nói): trong kinh kịch là nói một cách có nhạc tính cao, là những câu ngắn có thể nói như bình thường, nhưng chủ yếu là nói một cách có vần điệu.
“Tố” (điệu bộ) trong kinh kịch chỉ các động tác mang tính vũ đạo cao, và sự biểu lộ của gương mặt cũng như tư thái thân thể.
“Đả” (võ thuật) là hình thức biểu diễn thứ tư trong kinh kịch, chỉ những động tác biểu diễn chiến đấu, võ thuật mang tính vũ đạo cao.
3. Các nhân vật trong Kinh kịch
.png)
Sinh, Đán, Tịnh, Sửu thể hiện tính cách, thân phận, địa vị của các nhân vật khác nhau trong Kinh kịch (Ảnh sưu tầm)
Sinh (生): Đóng vai nam chính, thường thể hiện tính cách trung thành và dũng cảm
Đán (旦): Đóng vai nữ chính, thường đẹp và tốt bụng. Đán thường biểu diễn những đoạn hát lãng mạn và dễ thương.
Tịnh (净): Nhân vật nam được vẽ mặt với rất nhiều màu sắc, thường đóng các vai hào kiệt hoặc thư sinh.
Sửu (丑): Đóng vai hề, thường mang đến tiếng cười cho khán giả. Sửu có nhiệm vụ làm dịu bớt căng thẳng cho các tình huống nghiêm túc trong vở kịch.
4. Trang phục và hóa trang nhân vật trong Kinh kịch Trung Quốc
Trang phục trong Kinh kịch Trung Quốc
Trang phục Kinh kịch thường được dựa trên thiết kế của các loại phục trang thời Minh. Dựa vào trang phục, ta có thể nhận biết được thân phận, địa vị và giới tính của nhân vật.

Trang phục Kinh kịch thường được dựa trên thiết kế của các loại phục trang thời Minh (Ảnh sưu tầm)
Như vua quan, quý tộc thì mặc áo "mãng". Mãng của nam thì thường dài xuống tới bàn chân, trên áo được thêu hình rồng. Mãng của nữ thì ngắn hơn, dài không quá gối, trên áo thêu hình phượng. Trang phục của quan văn trước ngực và sau lưng có hình vuông thêu hình động vật như lân, chim trĩ… Còn của quan võ là nhung y giáp trụ, sau lưng cắm bốn lá cờ đuôi nheo gọi là cờ giáp. Còn nhân vật biểu hiện tầng lớp thấp kém, dân lành thì tay áo tròn và hẹp.
Ngoài ra, màu sắc của những loại trang phục này cũng biểu hiện cho địa vị của họ trong xã hội phong kiến. Vua chúa, quan lại sẽ mặc màu đỏ, vàng hoặc xanh là những màu sắc sặc sỡ. Còn tầng lớp thấp trong xã hội, thường dân thì mặc màu sắc nhạt nhòa hơn, chủ yếu là màu tím hoặc trắng.
Hóa trang nhân vật trong Kinh kịch Trung Quốc
Tạo hình của nhân vật được thể hiện thành công hơn thông qua nghệ thuật vẽ mặt. Đây được xem là yếu tố đặc sắc nhất, giúp khán giả nhận biết tính cách và vai trò của nhân vật qua màu sắc trên mặt nạ. Màu sắc trên khuôn mặt cũng chiếm giúp việc tạo hình được thành công hơn, thường thể hiện tính cách như đỏ thể hiện người có tính cách trung thành; trắng thể hiện người gian trá, độc ác; xanh dương thể hiện tích cách kiên cường, dũng cảm; và vàng thể hiện thần phật,...

Mặt nạ hóa trang trong Kinh kịch Trung Quốc (Ảnh sưu tầm)
Với những nhân vật khác nhau thì lại có các quy định khác nhau về cách vẽ mặt, được gọi là “Kiểm phổ” tức là danh mục các kiểu vẽ mặt. Trong kiểm phổ của Kinh kịch có tới hơn một trăm cách vẽ mặt, có những cách vẽ mặt chỉ chuyên dùng cho một nhân vật nào đó như: vai Trương Phi trên trán vẽ hình một quả đào, tượng trưng tam anh kết nghĩa vườn đào; vai Bàng Đức trên trán vẽ một con cua thể hiện sự ngang ngược; vai Châu Thương hai bên má thường vẽ hình vẩy đuôi cá thể hiện nhân vật sống bằng nghề sông nước, vai Quan Vũ, Triệu Khuông Dận thường vẽ lông mày dài màu trắng thể hiện sự uy nghiêm … Tuy vậy kiểm phổ cũng không phải là cố định tuyệt đối, mà tuỳ vào vở kịch được diễn, tuổi tác của nhân vật, kiểu mặt của diễn viên … mà có những sai biệt khác nhau.
4.Nhạc cụ dùng trong Kinh kịch Trung Quốc
Dàn nhạc trong kinh kịch được phân làm “văn trường” và “vũ trường”, đặc biệt phải phối hợp cực kì chặt chẽ với kịch bản và diễn viên để truyền tải triệt để nội dung vở diễn.
“Văn trường” bao gồm các nhạc cụ thuộc bộ khí và bộ dây và thường được sử dụng để đệm cho tiếng hát. Bao gồm các nhạc cụ như sau: Kinh Hồ, Kinh Nhị Hồ, Đàn nguyệt, Tam Huyền...
“Vũ trường” bao gồm các nhạc cụ thuộc bộ gõ và thường được sử dụng để tạo ra các âm thanh có nhịp điệu mạnh mẽ hoặc dồn dập, phù hợp với các cảnh giao đấu. Bao gồm các nhạc cụ như sau: Trống, chiêng lớn, chũm chọe, chiêng nhỏ...
Ví dụ, khi biểu diễn kinh kịch, dùng trống và phách để chỉ huy phải phải nắm vững các bước của âm nhạc cũng như diễn xướng: phối hợp chặt chẽ với các động tác của diễn viên, điều tiết tiết tấu hoặc làm nền cho diễn viên hát hoặc nói. Phách và trống do một nhạc công kiêm sử dụng. Nhạc khí phụ hoạ còn có thể dùng mô phỏng một cách sinh động những tiếng động trong cuộc sống như: tiếng trống, tiếng thanh la cầm canh để biểu hiện thời gian sớm tối; hay tiếng gió, tiếng sám, tiếng ngựa hí, gà gáy…
Phần kết
Thông qua bài viết này, CGE mong rằng bạn đã hiểu hơn về nghệ thuật truyền thống Kinh kịch của Trung Quốc. Nếu có bất kỳ câu hỏi hoặc nhu cầu hỗ trợ gì, đừng ngần ngại liên hệ ngay với CGE nhé!
XEM THÊM
TỨ ĐẠI PHÁT MINH CỦA TRUNG QUỐC
NGŨ NHẠC DANH SƠN – 5 NGỌN NÚI NỔI TIẾNG Ở TRUNG QUỐC
SỰ KHÁC BIỆT VỀ TẾT Ở VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Tác giả: Cô Phạm Ngọc Vân
Xin chào, mình là Phạm Ngọc Vân, hiện đang phụ trách quản trị nội dung tại blog cge.edu.vn.
Mình tốt nghiệp Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, chuyên ngành Giảng dạy Hán ngữ và hoàn thành chương trình Thạc sĩ ngành Giáo dục Hán Ngữ Quốc tế tại Đại học Tô Châu (Trung Quốc) với GPA 3.7/4.0.
Với hơn 4 năm kinh nghiệm giảng dạy tiếng Trung, mình đã có cơ hội đồng hành cùng rất nhiều học viên ở mọi cấp độ. Hy vọng những bài viết trên blog sẽ mang đến cho bạn thật nhiều cảm hứng và động lực trong hành trình chinh phục tiếng Trung!
Cảm ơn bạn đã đọc và chúc bạn học tốt!
"三人行,必有吾师焉"
"Khi ba người cùng đi,
phải có một người có thể làm thầy của tôi"