Hát bội và Kinh Kịch giống hay khác nhau
hát bội và kinh kịch giống hay khác nhau
Hát bội của Việt Nam và Kinh kịch của Trung Quốc đều là những nghệ thuật truyền thống quý giá của hai quốc gia, mang đậm bản sắc dân tộc và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa của cả hai nền văn minh. Mỗi thể loại đều tồn tại và phát triển theo cách riêng, mang trong mình những nét độc đáo và sự đa dạng về nội dung, phong cách biểu diễn và tác động đến công chúng. Trong bài viết này, CGE đã tổng hợp lại về đặc điểm của cả hai hình thức nghệ thuật, đi sâu vào để so sánh và tìm hiểu về những điểm tương đồng và khác biệt giữa Hát bội và Kinh kịch.
1. NGUỒN GỐC:
Như hầu hết các loại hình sân khấu cổ truyền khác, nguồn gốc của Hát bội vẫn luôn là một chủ đề gây tranh cãi vì có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, có 3 nhận định và giả thuyết chính nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu:
- Hát bội ra đời từ thời Trần thế kỷ XIII trên cơ sở kép hát tù binh Trung Quốc Lý Nguyên Cát truyền dạy cho Việt Nam.
- Hát bội ra đời từ thế kỷ XVII tại Bình Định do Đào Duy Từ dạy cho người dân nơi đây và sau đó được lan truyền khắp cả nước.
- Hát bội ra đời vào khoảng thế kỉ XVI và XVII từ các trò diễn sân khấu phát triển lên.
Nguồn gốc Kinh kịch
Kinh kịch bắt nguồn từ nền văn hóa và nghệ thuật truyền thống Trung Quốc, nhưng phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, đặc biệt dưới triều đại Thanh.
- Thời nhà Đường: Nghệ thuật diễn tuồng sân khấu được gọi là Hí kịch, về sau phát triển thành Tham quân hí, trong đó có hai vai diễn là Tham quân (vai tinh khôn) và Thương cốt (vai khờ khạo). Hai nhân vật này trong vở diễn thường biểu diễn các đoạn đối đáp khôi hài.
- Thời nhà Tống: Tham quân hí biến thành Tạp kịch. Vở diễn cũng chỉ có hai người: Thương cốt (vai khờ khạo) được đổi thành tên Phó mạt, còn Tham quân (vai tinh khôn) được đổi tên là Phó tịnh. Đến thời Nam Tống, vùng đất Ôn Châu là nơi nổi danh về hí kịch, ca múa, nên sản sinh ra thể loại được gọi là Nam hí (hí kịch Nam Tống).
- Thời nhà Nguyên: Tạp kịch thời nhà Nguyên nhấn mạnh tính hài hước, qua đó nhằm phê phán các tệ nạn xã hội đương thời. Trong giai đoạn này, tạp kịch đạt đỉnh điểm phát triển với thể loại Truyền kỳ, tập trung vào các chủ đề tình cảm lãng mạn và sử dụng âm nhạc dân gian địa phương.
- Thời nhà Thanh: Côn khúc trong Truyền kỳ được gọi là Nhã bộ, rất được giới trí thức hâm mộ. Vào giai đoạn Côn Khúc suy tàn, các loại Hí kịch địa phương mới có dịp nở rộ và được gọi theo tên địa phương như Xuyên kịch của vùng Tứ Xuyên, Tương kịch của vùng Tương Dương,.. về sau được gọi là chung là Kinh kịch. Hầu hết các tài liệu đều chép rằng Kinh kịch bắt đầu từ thời nhà Thanh (1636–1912) và phát triển hoàn thiện vào khoảng giữa thế kỉ 19.
SO SÁNH:
Hát bội có bị ảnh hưởng bởi tiền thân của Kinh kịch, cụ thể nhất là Hí kịch. Kinh kịch hoặc nhạc kịch Trung Quốc nói chung ảnh hưởng trực tiếp vào Hát bội cận đại. Tuy nhiên, qua thời gian, nghệ thuật Hát bội đã phát triển và tạo ra những đặc điểm riêng biệt, giúp phân biệt rõ ràng giữa Hát bội và Kinh kịch.
2. NỘI DUNG VÀ THỂ LOẠI
Nội dung
Nội dung của Hát bội và Kinh kịch có khá nhiều điểm tương đồng. Do đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, các kịch bản của cả Hát bội và Kinh kịch đều thể hiện rõ những giá trị đạo lý truyền thống như Tam cương (quân, sư, phụ) và Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tin); kẻ làm ác cuối cùng sẽ phải đền tội (gieo gió, gặt bão), người hiền lành được hưởng phúc (ở hiền gặp lành).
Cả hai thể loại này đều phản ánh cuộc sống của xã hội hai nước thời xưa (phong tục, thói quen sinh hoạt, mối quan hệ xã hội,…) và chính vì văn hóa hai nước đương nhiên có những nét riêng mà vì thế kịch bản của hai thể loại này cũng phản ánh nét đặc trưng văn hóa riêng của từng nước.
Thể loại
Về thể loại, thì cả Kinh kịch và Hát bội đều có nhiều nhóm kịch bản khác nhau.
Trong Hát bội thì lại được chia ra thành tuồng pho (tuồng lấy cốt từ truyện Trung Quốc), tuồng thầy (tuồng được do các bậc thầy như Đào Tấn viết ra) và tuồng đồ (tuồng hài).
Còn Kinh kịch thì chúng ta có văn hí (tuồng dân sự), vũ hí (tuồng chiến tranh), đại hí (tuồng anh hùng), và tiểu hí (tuồng hài hước).
Cả hai hình thức đều có nhấn nhá và ngữ điệu riêng trong câu chữ. Nhưng trong Kinh kịch, diễn viên thường hát và nói với giọng cao hơn so với Hát bội (diễn viên Hát bội thường hát với giọng thật của mình)
Điệu bộ và múa: do đều dựa vào tư thế võ thuật truyền thống của từng nước, thế nên sẽ có những đặc sắc khác nhau.
Kinh kịch thường múa theo tư thế võ thuật Trung Quốc, với các động tác uyển chuyển, nhào lộn, và nhấn mạnh vào động tác bắt mắt.
Trong khi đó, Hát bội có cách múa chậm rãi hơn, nhưng động tác lại chắc chắn hơn, thường dựa trên tư thế võ thuật dân tộc Việt Nam.
Gồm 4 hệ thống nhân vật chính gồm “Sinh” – nhân vật nam, “Đán” – nhân vật nữ, “Tịnh” (hay còn gọi là “Hoa kiểm”) – nhân vật nam thường đóng các vai hào kiệt hoặc thư sinh và được vẽ mặt với rất nhiều màu sắc, “Sửu” – nhân vật hài, xấu xí.
Nhân vật trong Hát bội
Hệ thống nhân vật trong Hát bội được chia thành Kép – nhân vật nam, Đào – nhân vật nữ, Lão – nhân vật cao tuổi, tướng, nịnh, tiên, yêu quỷ...
Vua, mặc long bào màu vàng có thêu hình rồng năm móng. Các quan tứ trụ triều đình thì mặc “mãng”. Mãng màu đỏ nếu là quan võ già, trung chính. Mãng màu tía nếu là Thái sư. Riêng mãng màu vàng vua cũng thừng mặc. Nịnh thần thì thường mặc mãng màu đen. Áo bố tử màu tía là áo của Thái giám, trước ngực có miếng bố tử hình vuông. Quan văn, quan võ mặc Long chấn, tay chẽn có thêu hình rồng hoặ hổ báo trên ngực, nửa thân trước bên dưới xẻ giữa thường thêu đường vân gợn sóng hoặc hình dãy núi, hình cỏ hoa, tuy từng nhân vật.
Trang phục Kinh kịch
Như vua quan, quý tộc thì mặc áo "mãng". Mãng của nam thì thường dài xuống tới bàn chân, trên áo được thêu hình rồng. Mãng của nữ thì ngắn hơn, dài không quá gối, trên áo thêu hình phượng. Trang phục của quan văn trước ngực và sau lưng có hình vuông thêu hình động vật như lân, chim trĩ… Còn của quan võ là nhung y giáp trụ, sau lưng cắm bốn lá cờ đuôi nheo gọi là cờ giáp. Còn nhân vật biểu hiện tầng lớp thấp kém, dân lành thì tay áo tròn và hẹp.
SO SÁNH:
Tuy nhiên xét về trang phục, mãng của Hát bội không để dài đến gót như các loại áo của Kinh kịch, mà chỉ mặc dài đến trên đầu gối 10 phân. Hơn nữa, tuy cả mãng của Kinh kịch và Hát bội đều thêu các hình rồng, mặt thú và thủy bà gợn sóng, nhưng như ta đã biết con rồng của Việt Nam khác với rồng của Trung Quốc. Con rồng trên áo tuồng Việt Nam thân ngắn và mập hơn con rồng của áo Kinh kịch Trung Quốc.
Màu sắc của mặt nạ sẽ thể hiện tính cách của nhân vật đó. Ví dụ như màu đỏ tượng trưng cho người anh hùng nghĩa khí, trung kiên. Màu xanh lợt, xám, trắng bệch là tượng trưng cho lũ gian ác, ti tiện, nham hiểm. Nhiều màu vẽ pha trộn, xen kẽ lẫn nhau là tượng trưng cho lũ yêu ma, quỷ sứ.
Ngoài màu sắc, thì hình dáng của từng bộ phận trên mặt nạ cũng rất quan trọng. Đối với lông mày, từng nhân vật cũng có những hình dáng và màu sắc khác nhau để làm nổi bật lên đặc điểm, tính cách của nhân vật đó.
Hoặc đối với trán, theo nhà nghiên cứu Trần Văn Khải, các loại trán bao gồm trán thái cực, trán bắc đẩu, trán quải tượng, trán não vàng, trán núi lửa, trán chữ hổ, trán chữ thọ, trán trái bầu, trán trái chùy, trán mặt trăng, trăn trái đào, trán hình vật, trán thường… Theo Đinh Bằng Phi thì “trên trán có vẽ thêm một con mắt là người có huệ nhãn nhìn xa biết rộng, thông thiên đạt địa. Trên trán vẽ vòng tròn chia đôi hai màu: trắng, đỏ (âm dương/nhật nguyệt) thể hiện là người sáng suốt thông giao trời đất, soi rọi những nỗi oan ức của mọi người. Cuối cùng, cũng có nhiều loại miệng như nén bạc, miệng cọp, miệng lôi công, miệng vịm lửa, miệng củ ấu, miệng quai xách…
Hóa trang trong Kinh kịch:
Màu sắc trên khuôn mặt cũng chiếm giúp việc tạo hình được thành công hơn, thường thể hiện tính cách như đỏ thể hiện người có tính cách trung thành; trắng thể hiện người gian trá, độc ác; xanh dương thể hiện tích cách kiên cường, dũng cảm; và vàng thể hiện thần phật,...
Với những nhân vật khác nhau thì lại có các quy định khác nhau về cách vẽ mặt, được gọi là “Kiểm phổ” tức là danh mục các kiểu vẽ mặt. Trong kiểm phổ của Kinh kịch có tới hơn một trăm cách vẽ mặt, có những cách vẽ mặt chỉ chuyên dùng cho một nhân vật nào đó như: vai Trương Phi trên trán vẽ hình một quả đào, tượng trưng tam anh kết nghĩa vườn đào; vai Bàng Đức trên trán vẽ một con cua thể hiện sự ngang ngược; vai Châu Thương hai bên má thường vẽ hình vẩy đuôi cá thể hiện nhân vật sống bằng nghề sông nước, vai Quan Vũ, Triệu Khuông Dận thường vẽ lông mày dài màu trắng thể hiện sự uy nghiêm… Tuy vậy kiểm phổ cũng không phải là cố định tuyệt đối, mà tuỳ vào vở kịch được diễn, tuổi tác của nhân vật, kiểu mặt của diễn viên… mà có những sai biệt khác nhau.
SO SÁNH:
Nếu ta đặt mặt nạ Kinh kịch và mặt nạ Hát bội cạnh nhau, ta có thể thấy cả sự tương đồng và sự riêng biệt của hai bộ môn này.
Điểm tương đồng có thể thấy dễ nhất là của Kinh kịch và Hát bội đều sử dụng màu sắc để định trước tính cách của nhân vật. Màu đỏ thể hiện cho người trung trực, phe thiện còn màu lợt trắng lại thể hiện cho kẻ nham hiểm, ti tiện.
Ngoài ra, râu của Kinh kịch và Hát bội cũng rất giống nhau từ loại cho đến màu. Tuy nhiên, bố cục của mặt nạ của Hát bội và Kinh kịch thì lại vô cùng tách biệt. Theo NSƯT Trần Hưng Quang: “Về hóa trang vẽ mặt của Kinh kịch thì vẽ theo mảng, khối, còn vẽ mặt của tuồng miền Trung thì vẽ theo đường gân, đường chỉ trên mặt thật mà cách điệu thành các loại nhân vật trung, nịnh, lão văn, lão võ, kép đen, kép đỏ, kép trắng, kép rằn, hay đào chiến, đào trào v.v…”. Hơn nữa, về phía Kinh kịch thì mặt nạ Kinh kịch có thể đánh bạt màu ra để dẫn màu, còn mặt nạ Tuồng không dẫn màu. Mặt nạ Kinh kịch thường chi tiết và sặc sỡ hơn trong khi mặt nạ Hát bội lại thường rõ ràng và minh bạch hơn.
Trống chiến thường dùng hơn các loại trống khác. Dùng để khi đánh giặc, lúc múa hát. Trống chiến quan trọng vì nghệ sĩ nghe tiếng trống để múa và hát. Không có trống không hát được. Như vậy, trống chiến có công dụng đa dạng, phong phú, diễn tả được tình tiết, trạng huống tùy theo cảnh diễn biến của vở Tuồng.
Ngoài ra còn có các loại nhạc cụ khác như: trống cái, trống cơm, trống chầu, hầu, đàn nhị và đán chánh, ống sáo, ống tiêu, sanh, phách
Nhạc cụ của Kinh kịch
“Văn trường” bao gồm các nhạc cụ thuộc bộ khí và bộ dây và thường được sử dụng để đệm cho tiếng hát. Bao gồm các nhạc cụ như sau: Kinh Hồ, Kinh Nhị Hồ, Đàn nguyệt, Tam Huyền...
“Vũ trường” bao gồm các nhạc cụ thuộc bộ gõ và thường được sử dụng để tạo ra các âm thanh có nhịp điệu mạnh mẽ hoặc dồn dập, phù hợp với các cảnh giao đấu. Bao gồm các nhạc cụ như sau: Trống, chiêng lớn, chũm chọe, chiêng nhỏ...
SO SÁNH:
Tóm tắt lại, cả Kinh kịch và Hát bội đều yêu cầu sự chú ý và phức tạp trong việc sử dụng nhạc cụ. Các nhạc công phải tập trung vào kịch bản và diễn viên để chọn loại nhạc cụ phù hợp cho từng bối cảnh.
Cả hai loại nghệ thuật này đều sử dụng các nhạc cụ thuộc bộ khí, bộ gõ và bộ dây trong dàn nhạc của mình, và có một số loại nhạc cụ có hình dáng giống nhau.
Cả Kinh kịch và Hát bội đều sử dụng đàn nhị, nhưng dàn nhạc của họ có những đặc điểm riêng biệt không thể nhầm lẫn. Ví dụ, tiếng trống trong Kinh kịch thường cao hơn và sắc nét hơn so với tiếng trống trong Hát bội, và Hát bội sử dụng các loại trống đặc biệt như trống cơm và trống chầu.
Tuy có điểm tương đồng, nhưng dàn nhạc của Kinh kịch và Hát bội vẫn có những đặc trưng riêng mà khán giả có thể phân biệt dễ dàng.
Phần kết
Thông qua bài viết này, CGE mong rằng bạn biết được Hát bội và Kinh kịch có gì giống và khác nhau. Nếu có bất kỳ câu hỏi hoặc nhu cầu hỗ trợ gì, đừng ngần ngại liên hệ ngay với CGE nhé!
XEM THÊM
Kinh kịch: Nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc
Tứ đại phát minh vĩ đại của Trung Quốc
Bạn chỉ được một lần để sống – Giả Linh
Lớp Học Trải Nghiệm
Quý phụ huynh/học viên quan tâm đến chương trình vui nhấp vào đăng ký ngay dưới để được tư vấn miễn phí
Đăng Kí Ngay